Mục lục bài viết
Có lẽ cả Microsoft cũng không ngờ rằng thương vụ mua lại Hotmail vào tháng 12 năm 1997 đã đánh dấu bước chuyển mình của email ngày nay.
Hai mươi năm về trước, vào ngày 29/12/1997, Bill Gates đã mang về Microsoft một món quà Giáng Sinh muộn với giá 450 triệu USD, đó là một startup về email có trụ sở tại Sunnyvale có tên là Hotmail. Việc mua lại công ty sở hữu Hotmail với số tiền lớn nhất thời bấy giờ, Microsoft đã chính thức bước chân vào thế giới email trên nền Web.
Được giới thiệu lần đầu năm 1996 bởi Jack Smith và Sabeer Bhatia với tên gọi “HoTMaiL” (cải biên từ chữ HTML, ngôn ngữ của World Wide Web), Hotmail ban đầu được tích hợp vào dịch vụ trực tuyến MSN của Microsoft. Nhiều tiền đã được đổ ra, sai lầm đã phát sinh, thương hiệu bị thay đổi, spam trở thành huyền thoại, cũng như rất nhiều chữ ký email khủng khiếp đã xuất phát từ đây.
Nhưng trong những năm tiếp theo, Hotmail đã đặt ra quy luật cho tất cả các dịch vụ email trên nền Web, khởi đầu cho kỷ nguyên dịch vụ email miễn phí cho người dùng. Trong quá trình phát triển, Hotmail đã tạo ra những thay đổi trong Windows (về sau trở thành Windows Server), tạo cơ sở cho hệ điều hành đẩy mạnh hoạt động hướng tới trung tâm dữ liệu. Và dịch vụ email này là bước đầu tiên của Microsoft để hướng tới dịch vụ đám mây Azure.
Marco DeMello, cựu giám đốc điều hành Microsoft, hiện là CEO của công ty bảo mật di động PSafe Technology, người đã từng được giao nhiệm vụ tích hợp Hotmail thành chương trình quản lý chính cho MSN – lời đáp trả của Microsoft tới America Online. DeMello trở thành giám đốc mảng bảo mật Windows và quản lý sản phẩm Exchange trước khi rời Microsoft vào năm 2006.
Trong một cuộc phỏng vấn với Ars đã kể lại: Vào tháng 10/1996, ngay sau khi được thuê để quản lý MSN, ông đã được mời đến Redmond để gặp Bill Gates. “Ông ấy đã giao cho tôi và nhóm nhiệm vụ tìm kiếm hoặc phải tạo ra cho Microsoft một hệ thống email miễn phí trên nền Web và cung cấp cho cả thế giới”, DeMello nói
Bạn có thư!
Trong năm 1996, web vẫn còn lôi kéo nhiều người theo dõi. Hầu hết tất cả người dùng Internet đã truy cập qua các dịch vụ như AOL, MSN, CompuServe và EarthLink. Một số ít được dùng dịch vụ Internet “tốc độ cao” qua các kết nối ISDN, nhưng rất nhiều công ty thậm chí còn chưa kết nối hệ thống email của họ. Trong khi có một vài Web đã dựa trên cung cấp mail từ ISP tích hợp bên trong các tài khoản lưu trữ trên Web, và Lotus đã giới thiệu sơ qua về giao diện web đến cc:Mail vào năm 1994.
Hotmail và đối thủ cạnh tranh Rocketmail (Sau đó trở thành Yahoo Mail) lần đầu tiên được cung cấp miễn phí, email dựa trên Web được tài trợ bởi các quảng cáo. Trước năm 1997, Hotmail đã đạt được 9 triệu người sử dụng.
“Tôi đã nói lên quan điểm rất rõ ràng rằng chúng tôi không thể xây dựng được dịch vụ hệ thống Web Mail trong thời gian mà Bill Gate yêu cầu. Mua một dịch vụ hiện tại đã có sẵn mới là lựa chọn thực tế duy nhất bây giờ”. Khi nói điều này, DeMello biết rằng, các nhà quản lý của Microsoft thường không thích điều này, họ chỉ muốn những thứ “cây nhà lá vườn” nghĩ là tự mình trải nghiệm đắng cay chứ không thích nguồn thuê bên ngoài.
Thật không ngờ, ngài Bill đã viết một tấm sec trị giá 450 triệu USD đưa cho tôi, và tôi đã được giao trách nhiệm tích hợp hệ thống đó và mở rộng nó trong Microsoft”, DeMello hào hứng kể lại.
Kiểm soát quyền truy cập
Trách nhiệm này là một sự kết hợp giữa các phần mềm chạy trên Unix – trộn lẫn gữa máy chủ web chạy FreeBSD ở phần trên và Sun Solaris trên SPARC ở đằng sau – thành môi trường hệ điều hành Windows, và rồi di cư sang Windows Server.
Window NT Server không thực hiện nhiệm vụ này vào năm 1997. Dù nhóm của DeMello đã phát triển một vài giao diện cho môi trường của Windows dựa trên nền tảng Hotmail, “Chúng tôi chính là một khách hàng của Windows Server”, ông nói “và lúc bắt đầu chúng tôi cũng không cảm thấy hài lòng”.
Mặc dù mang áp lực phải ngay lập tức chuyển mã nguồn sang Windows nhưng DeMello cho biết “Chúng tôi đang gặp khó khăn trong rất nhiều thứ, từ bảo mật đến quản lý bộ nhớ, và cách để tự kết nối mạng TCP. Chúng tôi cứ so sánh liệu cái này nên lấy từ Unix hay NT và đó là lý do tại sao chúng tôi vẫn không thể chuyển chúng được.”
Chưa kể đến vào thời điểm đó, giám đốc điều hành của Sun – Scott McNealy – vẫn thường đem hệ thống điều hành máy chủ này của Microsoft như một trò đùa trong các câu chuyện cười, điều này như xát muối vào vết thương của giám đốc điều hành Microsoft. Và để làm thay đổi được điều không thể thành có thể, đội ngũ của DeMello đã tốn thời gian 3 năm cho sự ra đời hệ thống Window Server 2000.
DeMello đã làm việc với các thành viên của đội kỹ thuật xây dựng dữ liệu và các đội cộng tác ở thời điểm đó. Ông kể: “Đầu tiên là về khả năng mở rộng từng ngăn – đó là hệ thống thông tin trong Server, các ngăn hệ thống mạng, ngăn chứa TCP, chứa bộ nhớ và cả cách nó được quản lý như thế nào. Chưa hết, chúng tôi còn phải nghiên cứu về độ bảo mật khi truy cập vào các thư mục cục bộ ngay trong tiến trình thực hiện. Và nhờ vậy mà đội của chúng tôi đã nghiên cứu thành công”.
Mối quan hệ giữa Microsoft và đội Hotmail vẫn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm, đặc biệt là sự phát triển của IIS, đây là bộ phận hợp thành giữa dịch vụ Web và Internet của Window. “Chúng tôi đã có thể xây dựng được những bài thử nghiệm để có thể kiểm tra và đánh giá IIS – Hotmail. Chúng tôi còn ví von với nhau rằng: Nếu nó có thể vượt qua được bài kiểm tra Hotmail, bạn có thể trao nó cho bất cứ ai – quả là một bài kiểm tra vô cùng “vất vả” dành cho IIS”, DeMello nói.
Nhờ vào việc vận hành Hotmail, Microsoft đã có cơ hội tự mình trải nghiệm và cuối cùng, khi mà sau này Webmail đã trở thành dịch vụ không thể thiếu hàng ngày trên phạm vi toàn cầu, trải nghiệm mà DeMello tin tưởng chính là về dữ liệu đám mây Azure như ngày nay. Đây quả là một loại thông tin không giới hạn, giúp lên chi tiết các công việc cần làm, chứ không phải là đánh giá cái gì không làm được, cái gì làm tốt nhất, tệ nhất, những gì hiệu quả hay không hiệu quả.
Mặc dù quá trình chuyển đổi dữ liệu sang các máy chủ Window đã diễn ra trước đó khá lâu, hệ thống phụ trợ của Hotmail – Máy chủ và bộ nhớ lưu trữ cơ sở dữ liệu – lại vẫn chưa được chuyển sang Window Server và SQL Server hoàn toàn, mãi cho đến năm 2004. Việc di chuyển này lại càng nặng nề hơn khi mà nhu cầu lưu trữ dữ liệu ngày một tăng, trong khi tốc độ di chuyển lại có hạn, dữ liệu được chuyển từ cơ sở dữ liệu này sang cơ sở dữ liệu khác và được chuyển qua các trung tâm dữ liệu.
Hotmail đã để lại một nền tảng Office cho Microsoft – Outlook. Phiên bản Outlook đầu tiên đã được ra đời chỉ vài tuần sau khi Microsoft mua lại Hotmail. Phiên bản tiếp đó là Outlook 98 đã được sửa đổi để có thể hoạt động tương thích với Hotmail, điều này đã dẫn đến một trận chiến của các giao thức mạng.
DeMello noi Outlook sử dụng MAPI (giao thức mặc địch Exchange) làm giao thức mạng. Ông mô tả MAPI qua TCP/IP như là một trong những thứ “nặng nề” nhất được phát minh ra từ trước đến nay, do đó “chúng tôi đã phải thay đổi nó để có thể trở lại với WebDAV.”
Những trải nghiệm đau thương và bài học đáng nhớ
Phải mất ba năm mới chuyển xong từ Solaris sang Windows mà không xảy ra lỗi. DeMello nói “yêu cầu từ Bill Gates là không được để mất một hộp thư nào và chúng tôi đã làm được. Tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn khác.”
“Khi chúng tôi nhân rộng dịch vụ ra để phục vụ cho hàng triệu người dùng, đồng nghĩa với việc các hệ thống dữ liệu trung tâm cũng cần phải được mở rộng để có thể xử lý khả năng lưu trữ và ước tính nhu cầu của Hotmail. Kho dữ liệu được đặt cách xa vì giá rẻ. Chúng tôi phải đối mặt với chi phí ổ cứng tăng vọt” (đây là thời điểm từ năm 1997 đến 2000, chi phí lúc đó thật sự đắt đỏ)… Đó là khi mà bạn vẫn đang phải chi trả cho từng Megabyte (quên gigabyte đi). Chi phí cho cơ sở hạ tầng quả thật là một khoản chi đáng kinh ngạc.
Những trung tâm dữ liệu thì vừa đắt đỏ và lúc nào cũng yếu ớt như “đói ăn” vậy. DeMello nhớ lại thời gian khi mà ông và đồng nghiệp hoàn tất trung tâm dữ liệu mới, được xây dựng ở Bothell (Washington): “Chúng tôi đã bắt đầu thử nghiệm nó. Ngày đầu tiên, chúng tôi thử nghiệm Saturn và hậu quả là gây ra mất điện cục bộ ở Bothell. Kết quả là tôi đã phải giải quyết sự cố này với các quan chức thành phố vào sáng hôm sau, họ tỏ ra rất tức giận.
Dễ hiểu thôi! Và chúng tôi đã thử nghiệm lần thứ 2 thành công mà không gây ra sự cố mất điện nào. Sức tải điện đã được nâng lên, mọi người đều đã chuẩn bị sẵn sàng và gắng hết sức cho trường hợp xấu nhất xảy ra – khi cả thành phố bị chìm trong biển lửa. Nhưng thật may là chẳng có sự cố nào xảy ra”.
Sau đó, vào mùa hè năm 1999, lần đầu tiên Hotmail đã phải gánh chịu một vụ vi phạm bảo mật lớn khủng khiếp. Mỗi một tài khoản cá nhân của Hotmail – con số này ước tính là 50 triệu – có nguy cơ bị tiết lộ vì một lỗi trong tiến trình sắp xếp trong máy chủ của Hotmail. Lỗi này gây ra vấn đề: Hotmail cho phép truy cập vào bất kỳ tài khoản Hotmail nào với cùng một mật khẩu là “eh”.
Các website lan tràn cách hướng dẫn truy cập hộp thư bằng cách chỉ cần nhập tên tài khoản mục tiêu. Một số người cho biết đã có thể truy cập vào các tài khoản qua lỗi này gần hai tháng trước khi Microsoft sửa nó. Một số người còn tin rằng đó là cửa hậu (backdoor) được để lại bởi một nhà phát triển nào đó của Hotmail.
DeMello không muốn bình luận về sự cố vi phạm đó, ông từ chối thẳng thừng: Thà rằng giết tôi đi còn hơn là bắt tôi nói. Nhưng chính ông cũng cho rằng Hotmail luôn cần đặt vấn đề bảo mật và quyền riêng tư lên đầu tiên. Dẫu biết rằng giải quyết khi ấy là đã muộn màng, ông vẫn luôn nghĩ rằng, cần phải xây dựng hệ thống với nền tảng tập trung tối đa vào tính bảo mật và riêng tư.
Trong năm 1999, đã có 2 việc đặc biệt quan trọng mà Microsoft đã thực hiện. DeMello và cộng sự đã cố gắng bảo vệ các chứng chỉ và đưa ra các chính sách về mật khẩu nghiêm ngặt, họ cũng cảnh bảo người dùng về sự cần thiết để bảo vệ mật khẩu của họ. Ông cũng cho họ biết rằng: Gửi mail không phải là phương tiện an toàn nhất. Microsoft cũng cảnh báo người dùng không bao giờ chia sẻ hoặc gửi thông tin cá nhân, tài chính hay thông tin bảo mật qua email.
Hotmail sử dụng bảo mật HTTP (HTTPS) với mã hóa SSL giúp bảo vệ thông tin đăng nhập của người dùng, và Microsoft buộc người dùng phải sử dụng nhiều ký tự phức tạp hơn trong mật khẩu, phần còn lại thì chạy qua HTTP không mã hóa. DeMello nói: “Chỉ cần có một lệnh yêu cầu chúng tôi chạy phần cứng với gia tốc tối đa cũng đã tốn chi phí cao tới hàng ngàn USD cho mỗi thẻ mà bạn phải chạy, dù sử dụng Unix hay Windows Server. Bạn cũng không thể chạy toàn bộ cơ sở hạ tầng vào thời điểm đó qua SSL”
Chính sách về mật khẩu đã được thiết lập để ngăn chặn khách hàng sử dụng mật khẩu quá ngắn kể từ năm 2011. Không ngắn nhưng mật khẩu cũng không quá dài, chỉ tối đa 16 ký tự với Hotmail. Người dùng cũng được khuyến khích đặt mặt khẩu có độ khó càng cao càng tốt.
Vì vậy, nếu có ai đó đang cố gắng bắt mật khẩu mạng Wi-Fi của cửa hàng cà phê thì cũng không thể biết được mật khẩu, nhưng vẫn có khả năng là sẽ có ai đó có thể đọc được tin nhắn Hotmail của bạn bằng cách đánh cắp lưu lượng truy cập web sau khi đăng nhập.
Sự sụp đổ của Hotmail
Cạnh tranh giữa Gmail của Google và Yahoo đã buộc Hotmail cần phải cố gắng hơn nữa mới có thể đứng vững được trong thị trường này. Microsoft đã nổ lực khiến cho MSN trở nên “sống động” hơn trong thời gian khởi động cho dự án ra mắt Windows Vista năm 2005.
Microsoft cũng thay đổi thương hiệu cho nhiều dịch vụ mới như “Windows Live”, Hotmail đã được đổi tên thành “Windows Live Mail”. Tuy nhiên, người dùng Hotmail dường như khá bối rối và hay nhầm lẫn về điều này nên họ đã đổi lại tên một lần nữa sang Windows Live Hotmail.
Ngoài việc thay đổi thương hiệu, Microsoft đã bắt đầu viết lại toàn bộ hệ thống khởi đầu cho Hotmail, vốn trước đây hệ thống thường bắt đầu với các mã Solaris gốc C++ và Perl. Việc viết lại mã trong C# và ASP.NET đã giúp chấm dứt hiệu ứng Unix của Hotmail, có thể tốt hơn hoặc tệ hơn khi mà dịch vụ này lại trở thành nền tảng của Microsoft – thiết lập công ty hướng tới một nền tảng Office 365 và Azure Cloud như ngày nay.
Dù Hotmail là một yếu tố quan trọng đối với Microsoft, là nền tảng thử nghiệm của nhiều thứ, và quan trọng cơn nó là một cỗ máy “hái ra tiền”, đôi khi lại là tai tiếng ở một số nơi bởi là gốc rễ của những thứ xấu xa trên Internet. Người dùng Hotmail lại là kẻ gây ra những trò đùa tai tiếng và bị tẩy chay trong nhiều năm vừa qua. Nhà tư vấn quản lý thậm chí còn công khai cho rằng các công ty không nên thuê những người sử dụng Hotmail.
Hotmail là nơi sinh ra các tài khoản muốn thiết lập hồ sơ hẹn hò giả mạo. Là cái tiên phong trong email HTML, người dùng Hotmail là một mục tiêu tự nhiên cho các cuộc tấn công phishing – lừa đảo trực tuyến. Khả năng lọc spam của nó luôn bị nghi ngờ. Trớ trêu thay, Hotmail không có khả năng ngăn chặn thư rác khiến các tài khoản Hotmail bị chặn như các tài khoản spam – một phần bởi hòm thư quá đầy.
Vì vậy cho dù có nhiều tính năng tốt, nhưng chúng ta cũng không cần quá thương tiếc cho sự ra đi của nó. Outlook.com khiến mọi người dễ dàng quên đi những ngày dùng webmail cũ … và vẫn có hàng nghìn người vẫn rất lười xóa địa chỉ Hotmail.com của họ.